Pages

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

Chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới rèn luyện dân ta

     Mặc dù thế, tôi vẫn xin phép được nghĩ rằng: kình ngạc và chim muông ngày nay không phải dễ quét nó, như ở thời Nguyễn Trãi. Đấy là kình ngạc và chim muông của một đế quốc siêu cường. Riêng kình ngạc và chim muông của bọn tay sai của chúng cũng không phải là cá đất và chim giấy. Đấy là một không lực đứng vào hàng thứ ba, một hạm đội đứng vào hàng thứ sáu, thứ bảy trên thế giới, và với một triệu rưởi tay súng thiện chiến, chúng có cả một lục quân đông vào cỡ nhất, nhì cõi Á Đông này.

     Tất cả bộ máy chiến tranh khổng lồ, khổng lồ và dày công xây dựng ấy, đã tan vềo, đã tan tác, đã sạch như không trong có 50 ngày. Mỹ phải cút mà ngụy đã nhào. Cút và nhào thảm hại.

     Và phải nói rằng, chỉ có ở thời đại Hồ Chí Minh, Tổ quốc mới đủ sức đánh bẹp một quân thù khổng lồ như kia bằng một cách ngoạn mục như thế. Từ nghìn xưa dân ta vốn đã anh hùng, nhưng chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới rèn luyện dân ta, đưa dân ta lên đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ trăm năm, thậm chí từ hàng nghìn năm trước, bao lần dân ta đã đứng lên, nổi dậy. Nhưng chỉ với tư tưởng Hồ Chí Minh thì người dân mói được vùng dậy, đứng lên như người chủ, đứng lên làm chủ cuộc đời mình. Tiến công và nổi dậy… Và giành lấy chính quyền. Đây là kháng chiến. Mà đây là cách mạng. Đây là tổng khởi nghĩa của nhân dân. Không phải ở thời đại Hồ Chí Minh, làm sao ta có thể làm nên điều ấy.

Chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mới rèn luyện dân ta

     “Chống gậy lên non xem trận địa”. Ngỡ như trên non cao của Tổ quốc, Bác đang ngắm trận thắng này. “Quân ta chí lớn nuốt Ngân, Đẩu”. Ngỡ như Bác đang tự hào, mừng vui vì con cháu của Người.

     “Tiến lên toàn thắng ắt về ta”. Thưa Bác, dân tộc đã nghe lời Bác dạy, đã tiến lên trong bão lửa và đã giành về toàn thắng. Hay nói như Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Chúng ta đa thực hiện một cách tốt đẹp nhất lời căn dặn cuối cùng của Bác Hồ”. Lời căn dặn cuối cùng và đầu tiên: “Dù có phải chiến đẩu đốt cháy cả day Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ kháng chiến

Thành phố Hồ Chí Minh là đích phía chân trời

      Toàn dân tộc xúc động vui mừng khi biết rằng chiến dịch giải phóng Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được mang tên Bác: Chiến dịch Hồ Chí Minh. Và thành phố Hồ Chí Minh là tên của thành phố Sài Gòn.

        Hàng triệu chiến sĩ miền Nam, hàng vạn bà má khăn rằn năm nào đã khóc vĩnh biệt Người, hôm nay hẳn sẽ thỏa lòng thấy tên Người về với miền Nam. Và quả là Sài Gòn xứng đáng được mang tên Người, Sài Gòn 64 năm trước đây đã từng thay mặt Tổ quốc, tiễn Bác ra đi tìm đường cho cách mạng.

       Ở thủ đô Hà nội mấy ngày này đã có hàng vạn người cầm cờ, cầm hoa đi về phía Ba Đình, phía ngôi nhà Bác ở. Trong ngày vui, ta càng thấm thía ơn Người.

        Chúng ta đã cười và đã khóc, đã khóc và đã cười trong ngày vui lớn. Đây là sự thực, đây là cơn mơ. Bâng khuâng chúng ta nhớ lại ba mươi năm, nhớ cả một đời, đòi đất nước, lẫn đời mình. Và ở chỗ nào, Bác lại không có mặt cùng ta, Bác và tình thương vô hạn mênh mông của Bác.

Thành phố Hồ Chí Minh là đích phía chân trời

       Qua bốn nghìn năm lịch sử, dân tộc ta đã bao lần giành những chiến công hiển hách, khi thì dựng nước, khi thì giữ nước. Có những chiến công chấn động non sông minh. Có những chiến công uy danh, hiệu lực vượt ra khỏi bờ cõi Tổ quốc. Chúng ta có Hàm Tử, Chương Dương, Chi Lăng, Rạch Gầm, Đống Đa… Chúng ta lại có Bạch Đằng, Cách mạng tháng Tám, Điện Biên, Điện Biên Phủ trên không hạ B.52 trên trời Hà Nội. Nhưng tôi nghĩ chưa chiến công nào đọ nổi chiến công ngày nay. Đây là chiến công vĩ đại nhất trong các chiến công vĩ đại, hào quang chói lọi nhất trong các hào quang của những trang sử Việt Nam. Có hiện tại của chúng ta, và truyền thống của cha ông cùng góp làm nên vinh quang đó.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: bài thơ bốn câu

Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

Mùa xuân thống nhất

         Sau chiến tranh, hay trước cái gì đây? Theo mùa Xuân ta lên cao, và từ chỗ đứng mùa Xuân ấy, ta thấy trước cái vùng trải ra trước mặt. Nơi cùng mùa Xuân ta sắp tiến quân vào! Những nhà thơ gọi đấy là thơ, là tương lai, là viễn cảnh. Những nhà kinh tế gọi là chương trình, kế hoạch, ngắn hay dài. Người làm nông nghiệp gọi là sản xuất lớn, người làm công nghiệp gọi là khoa học, hiện đại. Người làm sử gọi đấy là tiền đồ, là sứ mệnh của dân ta. Tùy theo tiếng gọi từng người, nhưng cái chưng bầy ra trước mắt ta kia là vô cùng to lớn. Đấy là nước Việt Nam độc lập và phú cường, hòa bình và thống nhất, nước Việt Nam đi vào cái mới, đi lên cái lớn, không phải chỉ cho bây giờ mà cho mai hậu, không phải chỉ vì mình mà vì cả bè bạn anh em.

Mùa xuân thống nhất

        Chào sự sinh hạ của ngày mai ấy, chào mùa Xuân, chào Tổ quốc, ta lại cầm lấy cành đào muôn thuở, cành đào đầy hoa và đầy tiềm lực, cành đào mà tôi nghĩ người cầm gươm xưa đã giương lên giữa ngày vui thắng trận của mình.

           Cầm cành hoa Việt Nam            

Chói ngời muôn thế ký

Cầm cành đào chân lý

 Ta đi qua thời gian.

Báo Thống Nhất – 1975

        Hiện nay đế quốc Mỹ đang quay sang âm mưu di tản những người lớn. Chúng bịp bợm rằng đấy là những người đã từng hai mươi năm cộng tác với chúng. Và bịp bợm hơn nữa, chúng đưa ra một con số là từ 20 vạn đến 1 triệu người. Đế quốc Mỹ mong làm sỉ nhục danh dự của Tổ quốc ta, một Tổ quốc anh hùng đã đánh bại chúng. Và nó đã hai lần phạm tội ác khi vừa lưu đày, di tản hàng vạn người để phục vụ cho âm mưu chúng, lại vừa vu cáo là những người cho đến phút cuối vẫn không yêu Tổ quốc của mình.

       Thực ra trong dân tộc này, cái số người thực sự phục vụ cho đế quốc Mỹ, chỉ có một rúm thôi. Nhưng người ta vì kế sinh nhai phải bán sức lực mình, chứ ai đã bán linh hồn? Người ta vì bị lừa bịp đe dọa, đã theo chúng một đoạn đường, chứ ai lại quyết cột cả đời mình vào đuôi ngựa Mỹ?



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: nhung bai tho cua ho chi minh

Trước sau đế quốc Mỹ vẫn là tên lái buôn

     Dù đã quen hàng chục năm nay với các tội ác của đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn sửng sốt trước các tội ác hiện nay của chúng. Và cứ nghe thêm từng chi tiết mỗi ngày, thì ta chỉ càng thêm sửng sốt mà thôi. Mặc dù cũ, đó là một tội ác rất mới, vô cùng mới, của tên đế quốc đầu sỏ. Tội ác cũ, cũ như cái truyền thống buôn người và di cư người của đế quốc Mỹ. Di cư người da đen, người nô lệ xưa kia, lại di cư như nó đã tiến hành ở Nam Tư, ở Hung-ga-ri, ở Cuba, rồi ở miền Bắc vào Nam nước ta sau khi hòa bình lập lại.

      Ngay nước Mỹ cũng thoát thai ra từ một cuộc di cư. Đáng tiếc là vào năm bắt đầu kỷ niệm 200 năm lập quốc rồi, con cháu của những người buôn nô lệ xưa vẫn chưa vượt ra khỏi tội ác truyền đòi ấy của tông tổ. Chungquy trước sau đế quốc Mỹ vẫn là tên lái buôn. Chỉ có điều nguyên liệu, vật phẩm chính, nguồn hàng chính của nó không phải là súng, không phải là máy móc mà là người, sinh mệnh thịt xương trí tuệ của con người. Tội ác “cũ” là thế. Nhưng đây cũng là tội ác “mới”. Cái mới là quan niệm về nguồn hàng, về nguyên liệu ngày nay đối với dế quốc Mỹ không còn đơn giản, thô sơ như 200 năm trước nữa.

Trước sau đế quốc Mỹ vẫn là tên lái buôn

       Xưa kia ở thời buôn nô lệ, người đối với chúng dù là sức lao động chỉ là bắp thịt. Ngày nay đế quốc Mỹ cần khai thác nhiều hơnởsản vật người. Người trước hết vẫn là bắp thịt như thườngngười da đen là món hàng buôn. Vì thế, một số người di cư ngày nay sê được chế tạo thành lính chiến – thành nhân công cái nhân công Châu Á rẻ mạt, có thể giúp tích lũy tối đa lợi nhuận. Nhưng người, ngày nay cũng là chất xám, chất óc, các tế bào của não. Cái này còn quý và đắt hơn các bắp thịt nữa kia. Trong một xã hội của khoa học, kỹ thuật hiện đại, dế quốc không chi cần bắp thịt làm nô lệ, mà muốn có những bộ óc làm nô lệ.

      Đế quốc đã từng buôn và buôn hòi, thứ hàng này trên các thị trường châu Âu. ở đây Ford đà liệt kê trong danh sách những người sẽ di tản ấy, nào là kỹ su, nào là bác sĩ, nào là giáo viên, nào là nhà văn, nào là kỹ giả. Tội ào những nhà văn và kỹ giả này. Mới hôm nào dây báo chí của họ bị Thiệu tịch thu, thân thể họ bị lao tù, nhung bây giờ thì Ford đã hiển thánh họ lên thành những người cần bào vệ, không bảo vệ thì hóa ra bể máu.

      Sự có mặt của nhiều nhà văn và ký già ở Huế, Đà Nắng, Quy Nhơn, Nha Trang để đón chào Cách mạng chúng tỏ rằng chẳng ai bị lùa vì cái trò bịp rè tiền của tổng thốngFord. Người, với cái tên lái ấy, là bắp thịt và chất óc. Người đối với Ford cũng là máu, nước mắt và các lòi rên xiết nữa kia. Cần có cái gì kích động dư luận thế giới chứ. Và tên lái nghĩ đến các trẻmồ côi hay chẳng mồ côi, cái thảm kịch hài hước, cái trò hề bi thảm, là tên đế quốc già nấp sau lưng con trẻ để kiếm ăn, mà cũng không xong! Việc ấy bại lộ rồi, bất chấp tài của tiến sĩ và mưu đồ của tổng thống.


Thảm kịch của đế quốc Mỹ

         Cứ mỗi lần đế quốc Mỹ dùng các danh từ to lớn, người ta biết rằng chúng đang phạm tội ác đâu đây. Chúng nói nhân đạo – “cuộc di tản nhân đạo”; tình thương – “cầu không vận tình thương”. Và “thảm kịch của con người” là những từ mà gần đây Ford và Kissinger sính dùng đến nhất. “Thảm kịch của con người”… khốn thay lại là chữ lâu nay thiên hạ hay dùng để chỉ các tội ác của đế quốc Mỹ. Thảm kịch của con người, khi chứng bỏ thuốc độc giết các tù nhân ở Phú Lợi. Thảm kịch của con người, khi tên trung uý Calây cùng đồng đội triệt hạ đàn bà con trẻ ở Son Mỹ, Mỹ Lai. Thảm kịch của con người, khi trên mặt đất đẹp đẽ này đế quốc Mỹ lại tạo ra những ấp chiến lược, trại tập trung, chuồng cọp.

         Chỉ có một đế quốc như đế quốc Mỹ, mà lòng tham vô biên đã đẻ ra sự tàn bạo vô hạn, mà tội ác tột trời đã được cộng vào hay nhân lên với sự giàu có và hiện đại tột đỉnh, chỉ có một đế quốc như thế mới đẻ ra các thảm kịch cỡ nhân loại, các siêu tội ác, siêu thảm kịch mà thôi. Hơn thế, chính đế quốc Mỹ lại là kẻ thứ nhất, kẻ đầu tiên, kẻ đi đầu, kẻ khai sáng ra các tội ác đó.

Thảm kịch của đế quốc Mỹ

        Ai đầu tiên ném bom nguyên tử xuống hành tinh chúng ta, ai dùng ngọn lửa nóng nhất thiêu sống hình hài và thịt xương nhân loại? Ai đầu tiên mơ trái đất sẽ có quang cảnh mặt trăng, con người lùi về thời kỳ đồ đá? Ai nuôi tham vọng hủy diệt con người và môi trường sống của nó trên quy mô một nước, nhiều nước, một chủng tộc, nhiều chủng tộc, trên quy mô một bán đảo lớn như bán đảo Đông Dương? Ai đầu tiên đã dùng B.52 ném bom vào các thành phố, thủ đô, noi con người cư trú?

         Chỉ cần nêu thêm những câu hỏi chung chung, trừu tượng như thế, thì ta đã trả lời ngay được một cách cụ thể đấy là đế quốc Mỹ. Ấy thế mà ngày nay, những kẻ đại diện cho nó, Ford và Kissinger còn dùng đến những từ cao sang kia không một chút ngượng mồm. Cái thảm kịch của con người! Vâng, con người chúng ta đã phải chịu một điều bi thảm nhất, là sự có mặt của những tên sát nhân ấy trong hàng ngũ nhân loại, chúng mang mặt người, và dùng ngôn ngữ của người.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: những bài thơ của hồ chí minh

Mỗi bước đi đều có Bác ở bên

     Tiền đồ đất nước, tiền đồ văn học thực là sán lạn vô cùng. Nhưng hái cho được thắng lợi đâu phải chuyện dễ dàng. Rất nhiều gian khổ sẽ làm chảy máu tay những người đi hái quả. Chúng tôi biết mười năm, hai mươi năm nữa, cuộc đời chúng ta sẽ vô cùng hạnh phúc. Nhưng giá ai hỏi: “Anh thích sống lúc nào? Ngày nay hay hai mươi năm sau?” thì anh chị em chúng tôi sẽ trả lời ngay: “Cho chúng tôi được sống vào những ngày này”. Vào lúc nhân dân ta đang chiến đấu gian khổ để tiêu diệt đế quốc Mỹ ở miền Nam, vào lúc chủ nghĩa xã hội đang được dũng cảm dựng xây ở miền Bắc, vào lúc mà trong mỗi việc làm, mỗi công tác, chúng ta đều thấy hơi thở của Bác Hồ quý yêu và kính mến cạnh bên ta.

     Những văn nghệ sĩ chúng tôi, trước Cách mạng tháng Tám mang một cái tâm hồn:

Ở không yên ổn, ngồi không ưng vàng

Ma dẫn lối, quỷ đưa đường

Chỉ tìm những chốn im trường mà đi…

Mỗi bước đi đều có Bác ở bên

       Những người ấy, ngày nay đang theo Đảng, theo Bác Hồ, cùng nhân dân tiến bước. Họ ờ trong đội ngũ anh hùng trùng trùng điệp điệp của nhân dân đang tiêu diệt bọn dế quốc xâm lược Mỹ, dựng xây nên trời mới đất mới cho tổ quốc, quê hương. Họ hứa sẽ luôn luôn nghe lòi Đảng dạy, lời Bác dạy, nghe sự chỉ giáo của nhân dân để không đi lệch hướng của mình. Đấy là công việc khó khăn, công việc không dễ dàng gì, nhưng họ quyết tâm thực hiện.

        Trong tập NHẬT KÝ TRONG TỦ, Bác có viết:

Nay ở trong thơ nên có thép .

Nhà thơ cũng phải biết xung phong…

        Để chào mừng cuộc họp lịch sử Hội nghị chính trị đặc biệt, chúng tôi xin cố gắng hết sức mình nâng ngòi bút lên thành vũ khí đấu tranh và xây dụng, nâng công tác của mình lên ngang tầm đòi hỏi của nhân dân và của Đảng.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: các bài thơ của hồ chí minh

Đất nước sau chiến tranh

          Mùa xuân cũng đến sớm trên miền Bắc năm nay, trước Tết tôi có dịp đi nhiều nơi, ở đất liền hay ngoài hải đảo. Ở đâu cũng là những tin vui, những sự không ngờ. Xe tôi đi một hơi trên những con đường liền một mạch. Tất cả cầu phà chết trong tiếng bom đã toàn bộ sống lại rồi. Những Bãi Cháy, những Hòn Gay, cẩm Phả, Cửa Ông bị hủy diệt bây giờ hồng mái ngói. Bể dầy đặc thủy lôi, giờ các tàu ta dọc ngang đi đánh bắt cá, các công nhân đảo Cô Tô lại đi mò bắt ngọc hai.

           Ngọn hải đãng Long Châu, con mắt ngọc bể Đông vẫn sáng ngời sau 300 trận lửa. Đến khu Mỏ, than hoàn thành vượt kế hoạch. Nghe tiếng than reo vui chứ không như có lúc nghe thấy xót lòng. Vào Thanh Hóa, tỉnh năm qua bị giày vò bởi nhiều cơn bão lụt thì mùa lúa năm nay đạt năng suất cao nhất từ trước tới giờ. Lợn đã bị trôi rất nhiều trong con lụt trước, nhưng bây giờ đàn lợn tăng vượt mức… từ lợn nái, lợn thịt, lạn lai kinh tế, lợn sữa… tất cả đều tăng. Tôi hiểu vì sao người xưa đã vẽ được bức tranh gà lợn thần tình, con lợn âm dương sắc màu rực rỡ. Khi lòng ta vui thì lợn cũng nên tranh…

Đất nước sau chiến tranh

            Đất nước sau chiến tranh. Đất nước sau chiến tranh… Tôi luôn luôn nhắc mình như vậy. “Hàn gắn vết thương sau chiến tranh, hàn gắn vết thương sau chiến tranh”. Nghị quyết 22 của Đảng cũng nhắc ta như vậy. Nhưng xanh quá chừng là màu xanh các rừng cây lâm nghiệp bên đường, xanh quá chừng là màu xanh của lúa, lúa Thái Bình, rồi lúa Hải Hưng, lúa Nam Hà, Hà Tây, rồi lúa Ninh Bình (Ninh Bình năm nay cũng lên 5 tắn) và di giữa màu xanh như vậy, trên những con đường liền một mạch như vậy, tôi nghĩ rằng một người nào đó ở xa mói đến, nếu ta không nhắc họ, họ quên rằng đây đã có chiến tranh. Thực là kỳ diệu, dân tộc của mình, mà mình say mãi! Dân tộc ta đánh giặc diệu kỳ, nhung vươn lên sau trận giặc tài giỏi biết bao! Còn nhiều cái bê bết lắm, ai mà không biết?

          Nhưng nhìn trên toàn cục mà coi, trên toàn bộ mà coi, là cái gì đây? Trong lịch sử dân tộc ta, ta đọc lại xem, có phải cứ sau mỗi cuộc chiến tranh, sử đều ghi rằng dân tộc bị “điêu” và đất nước hoang tàn! Ấy thế mà đánh nhau với tên đế quốc hung đồ nhất thế giới kia, đánh xong ta tính lại số dân thì dưđua: 7 triệu người. Không có một giống nòi cường tráng, không có một chế độ bảo quản tốt giống nòi, làm sao ta có được con số ấy? cố nhiên ta phải hạn chế sinh đẻ, sinh đẻ có kế hoạch, nhưng “người là vốn quý nhất” kia mà. Và đất cũng dã biết lo toan, đất đang cố vươn lên để kịp nuôi người. Đất đã đạt những mức ta không ngờ tới. Sáu tấn ở Nam Hà, bảy tấn ở Thái Bình, đó là nói toàn tỉnh, chứ từng thửa, từng vùng, đất còn sản xuất cao hơn nhiệm vụ của mình.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: tho cua ho chi minh

Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

Con đường chở những cảm xúc

       Qua hai năm trời thi hành Hiệp định Paris, miền Nam đã là thép là vàng chịu nghìn cân thử lửa. Bây giờ là thép luyện, vàng ròng. Và thế dân ta ở miền Nam ngày nay vũng mạnh hcm bao giờ hết. “Thế ta vững mạnh tựa Trường Sơn” như lòi của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đế quốc Mỹ cũng đánh giá sự vững mạnh ấy của ta bằng lời tru tréo rằng xe tăng Việt công xuất hiện ở Phước Bình. Máy cày cũng quan trọng chứ, ngài Ford? Máy cày xuất hiện ở Tây Nguyên rồi, ngài ạ! Nhà trường xuất hiện khắp nơi. Và hạt giống thì đã xuất hiện xanh um qua các mùa liên tiếp.

       Mỗi mảnh đất miền Nam bây giờ không chỉ là mỗi mảnh đất miền Nam. Nó hút được sức lực, máu huyết của toàn, thân Tổ quốc. Và Tổ quốc bây giờ cũng nhận được năng lượng, khí lực đến từ mỗi chiến trường, mỗi nương rẫy, mỗi cánh đồng, nhà máy nữa, tự miền Nam. Con đường Hồ Chí Minh đã là bộ máy tuần hoàn của toàn cơ thể. Cho tôi nói ít lời về con đường ấy mà tôi có dịp đi qua. Rồi đây lịch sử hàng trăm hàng nghìn năm sau sẽ nói đến con đường ấy như nói đến trống đồng, đến TRUYỆN KIỀU, đến Loa Thành An Dương Vương hay cọc Bạch Đằng.

Con đường chở những cảm xúc

        Con đường ấy, sau hai năm, giờ đã rộng rinh. Đế quốc Mỹ đã chụp ảnh nó và ngày đêm nhai nhải trên đài chửi rủa nó. Một bạn nhà báo nước ngoài hỏi tôi:

-     Giờ nó chở gì?

-     Nó chở hoa hồng cho Quân giải phóng.

-     Hoa hồng?

-   Vâng… Hoa hồng. Nhưng đế quốc Mỹ ác mồm thì bảo là đạn, thì bảo là gai.

       Phải rồi, hoa hồng nào mà chả có gai? Mỗi thắng lợi của ta đều là cái gai đâm vào tim óc địch, dù đấy là cái tháng của một mùa lúa, một lớp học vỡ lòng hay một trận diệt đồn.

       Con đường ấy đã chở bao nhiêu thứ làm tôi xúc động. Chở thóc giống. Chở sách vở học trò. Chở Truyện Tấm Cám in từ Thụy Điển. Chở búp-bê các nước bạn bè đến cho con trẻ miền Nam. Nhưng xúc động hơn tất cả là chuyện chở gỗ Trường Sơn! Những chiến sĩ mũ tai bèo đã lái xe chở gỗ quý Trường Sơn ra miền Bắc góp phần xây làng Bác. Miền Nam muôn thuở nhớ ơn Người. Miền Nam đời đời ghi công Người đã mang lại mùa Xuân cho dân tộc.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ của hồ chí minh

Con đường lịch sử và những căn hầm

          Đi trên con đường ấy, tôi ít chú ý đến đường, mà lại chú ý đến cái khác: những căn hầm! Suốt trên hàng nghìn cây số mà tôi đã đi qua, không nơi nào là không có hầm. Cơ hồ như cứ mười bước, hai mươi bước đã là một cái hầm kiên cố! Dân ta là một dân tộc quyết đánh đã đành, mà lại là một dân tộc biết đánh! Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhưng lại là dân tộc có trái tim nhân hậu biết chừng nào!

         Những căn hầm kia như tấm lòng bà mẹ theo con từ ở nhà, ra cho đến chiến trường, từng mỗi phút đều chăm chút nó. Mỗi căn hầm đều có mảnh liếp che những mảnh bom bi, đều có cọc hắng quét vôi, cho những người chiến sĩ nhận ra trong đêm tối. Ngỡ như người công binh khi làm chiếc hầm này, trong con mắt anh ta, trái tim anh ta, có rõ ràng cái hình ảnh của đồng đội mình giữa con oanh tạc. Bây giờ ta mới hiểu, vì sao dọc Trường Sơn, xe có cháy, nhưng người lại ít thương vong.

Con đường lịch sử và những căn hầm

         Con đường Hồ Chí Minh, tự nó đã rất là vĩ đại. Nhưng nếu ta biết cách nhìn, sẽ càng thấy giá trị của nó thêm. Đây là cách nhìn của một vị chỉ huy toàn tuyến đường năm 1972, khi đồng chí phát biểu ở một buổi tiễn biệt Đại tướng: “… Tôi đã nhìn, nghiên cứu các căn cứ của địch ở Đông Hà, Sa Mu, Ái Tử… Nó nhỏ bé lắm, so với chúng ta. Tôi tiếc rằng anh em chúng ta có nghiên cứu các căn cứ địch, chứ ít nghiên cứu căn cứ ta. Chỉ một binh trạm của ta thôi, thì đã vĩ đại biết bao! Địch xây dựng căn cứ trong điều kiện tự nhiên, còn các chiến sĩ xây dụng trong trường hợp, hoàn cảnh gian khổ ác liệt đến thế nào?…

         Tôi thích những cái nhìn tầm cỡ như vậy, áp đảo quân thù như vậy. Nhưng đây không phải chỉ là cách nhìn, đấy là thực tiễn. Đấy không phải chỉ là cách ta nhìn, đấy là cách ta thấy được! Hãy đứng trên đèo cao họng điểm này mà nhìn, hãy đứng trên đỉnh cao 1001 để thấy! Khi hàng trăm chiếc xe ta ban ngàynhư một con rồng đang cuộn lên các triền núi, và bụi đỏ bay đến tận tầng mây! Và ban đêm lại càng kỳ diệu nữa.

         Và phải nhìn con rồng ấy trong bối cảnh oai hùng của nó! Phong cảnh núi non ở đây như cómột thời kỳ hỗn mang nguyên thủy nào. Có lẽ chiến trường cổ kim, kể cả chiến trường thế chiến, hay chiến trường nguyên tử, cũng đến như thế là cùng! Tất cả như vừa qua con động đất lớn! Không phải chỉ là đá lở đất nhào, nhưng ngỡ cả những ngọn núi, con sông cũng được đảo lộn đi, nhào nặn lại. Ấy thế mà tuyến đường của ta vẫn đi qua đấy, hàng nghìn hàng vạn xe vẫn đi qua đấy, và con người của ta vẫn bám trụ ở chính ngay đây. Con người, đứng từ trên các họng điểm này nhìn xuống, trông bé nhỏ biết chừng nào! Nó như bị đè bẹp, mất hút đi giữa cái thiên nhiên trùng điệp bao la và hơn thế, giữa cái cảnh của chiến trường hủy diệt! Nhưng mà không! Chính sự có mặt của người, chấm người li ti đó đã cho ta ý nghĩa khác hẳn.


Con đường nối liền hai miền đất nước

      Mỗi thời đại, mỗi dân tộc đều có kỳ công của nó. Khi nhắc đến An Dương vương, người ta nhắc đến Loa Thành. Nhắc đến Trần Hưng Đạo đòi Trần, người ta nhắc đến cọc Bạch Đằng. Và ngày nay ta biết thêm rằng Nguyên Huệ cũng đã vượt từng quãng Trường Sơn bằng các đường thượng đạo. Con cháu biết ơn cha ông, nhưng ngày ray nếu cha ông sống lại, trở về, hẳn cha ông cũng xiết bao tự hào về con đường vĩ đại này, mà chỉ có thời đại nhân dân, chỉ có thời đại Bác Hồ mới xây nên được.

       Trên thế giới, ta biết ở châu Á, hay châu Mỹ la-tinh có những cuộc hành quân muôn dặm của nhiều phong trào cách mạng. Nhiều Đảng phải mở đường. Cách mạng đi đến đâu thì đấy là đường. Nhưng cách mạng qua xong, đạt mục đích rồi, thì những con đường ấy không còn nữa. Ở đây không thế. Con đường Hồ Chí Minh đang tồn tại, chọc thủng Trường Sơn, xẻ dọc Trường Sơn và ngày nay ta đang kiến thiết Trường Sơn. Tôi nhớ câu nói của một đồng chí trong ngày vui hôm ấy: “Truyền thuyết của dân tộc, năm mươi con theo chalên rừng, năm mươi con theo mẹ xuống biển. Hình như lâunay ta thích xuống bể, mà lên rừng chưa được nhiều. Rồi đâycần lên rừng mà xây dựng Trường Sơn”.

Con đường nối liền hai miền đất nước

      Từ Bắc chí Nam, chúng ta chỉ cần một con đường 2.000 cây số có thể nối liền! Nhưng con đường của chúng ta xây dựng nên, lại dài gấp 10 lần, 15 lần như thế! Có thể nói về nghĩa bóng và nghĩa đen, là cái đích thấy rồi, nhưng chúng ta không thể đi thẳng đến đích một lèo! Có đường A, rồi phải có đường B, đường c, có đường chính và có đường phụ, có đường thực lại phải có đường hư, ta phải đi tránh, đi quanh, đi né, đi vòng rồi đi thẳng vào đến đích. Hoàn cảnh và bom đạn quân thù bắt ta phải thế. Con đường dài thêm gấp 10,15 lần nhiệm vụ của mình! Nhưng cũng hay! Quân thù cũng phải tăng gấp trăm nghìn lần sự tổn phí của nó, kiệt quệ đi, mà cuối cùng không làm gì ta nổi, đành phải rút.

      Cuối cùng ta đã có một con đường không có ở bất kỳ đâu trên trái đất này! Đấy không phải là một con đường mà là một trận – tuyến – đường, một bát – trận – đồ – đường, một bàn – cờ – đường, một mạng – nhện – đường, một Loa – thành – đường, muốn gọi gì cũng được. Cứ dăm cây số, mười cây số thì đã là ngã ba, ngã tư, ngã tây, ngã đông, ngã hư, ngã thực! Chúng ta hiểu vì sao mà Mỹ – ngụy năm xưa dã bị tan thây trong một đoạn – chỉ mới một đoạn thôi, của cái mê-hồn-trận này.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ kháng chiến

Đường Trường Sơn – con đường không chỉ là con đường!

      Ngày nay, khi nhìn hàng nghìn xe chạy, nhìn xe pháo hành quân, ta nhớ lúc phải gùi thồ. Đã có lúc chỉ đưa lên hàng chục lít xăng mà phải hy sinh hàng chục mạng người dưới bom đạn địch. Ngày nay khi hàng trăm khẩu pháo ta gầm trời nhả đạn, nhớ lúc phải cắt cả lưỡi một con gà, nuôi kín dưới hầm. Ngày nay ta hạ cả những quãng rừng mở lối cho xe đi, nhớ khi “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, một người qua phải lấy ni-lông lót bước chân mình, lấy tay khỏa lại lá rừng cho không còn dấu vết! Câu chuyện 15 năm của lúc mở đường! 15 năm! Cũng là dài lâu, mà cũng là chớp mắt!

      Dài lâu nếu đem so với tóc trên đầu của các đồng chí ở Trường Sơn bây giờ đốm bạc, nhưng so với hàng vạn cây số đường xuất hiện như một sự thần kỳ, thì quả là chớp mắt, chứ sao! Nếu ta biết rằng con đường không chỉ là con đường nữa! Từ chỗ chỉ là một lối mòn giao thông, chi viện, nó đã thành tuyến hành lang chiến lược của Tổ quốc! Chúng ta hành quân qua đấy, lại còn tiêu diệt địch ở đấy, xuất kích ngay từ đấy. Và ngày nào trên đất nước Việt Nam còn địch, thì nhiệm vụ ấy vẫn đang còn. Nhưng thời gian, thời gian…

Đường Trường Sơn – con đường không chỉ là con đường!

      Thế đó mà một nhiệm vụ mới cũng đã xuất hiện ngay rồi. Tôi nhớ lần ấy, ở binh trạm miền Tây Quảng Bình, sau buổi chiều đi xem trọng điểm, tối về đồng chí Đại tướng hàn huyên cùng cán bộ. Đồng chí nói qua công việc: “Có thể chặn con sông kia lại làm hồ nuôi cá không? Các cậu có ai biết làm thủy lợi không? Những cánh rừng nguyên sinh ấy, chỗ nào ít bị đánh, nên khoanh lại một khoảng, để sau này nghiên cứu động, thực vật chứ?”. Thế đấy, thế đấy, rồi nơi hàng triệu cây rừng bị bom Mỹ đốt cháy thui, sẽ xuất hiện các nông trường, các lâm trường. Chỗ chúng gieo bom thì ta gieo hạt. Nơi các đồng chí ta xưa ngã xuống vì một cơn sốt rét, thì ngày nay là nơi các đoàn y dược đi tìm thuốc, nghiên cứu các cây rằng!

Trên con đường xưa kia chỉ có người chiến đấu đi qua, thì sẽ có các nhà địa chất, các nhà y học, các nhà sử học, các nhà ngôn ngữ học đi tiếp. Con đường hiện thực sẽ thành con đường lãng mạn nữa, ngày mai khi các nhà thơ đến đấy làm thơ, những người yêu đi du ngoạn. Tôi còn nhớ một bài thơ của chính ủy Đặng Tính đọc ở Đoàn bộ Ybài thơ nói đến những thành phố giữa Trường Sơn, những học viện giữa Trường Sơn, và những buổi nghe hòa nhạc cổ điển giữa Trường Sơn.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: bài thơ bốn câu

Con đường lịch sử

     Tôi thường so sánh con đường mang tên Bác ấy với những con đường khác, kể cả con đường số Một. Dù anh hùng kỳ lạ đến đâu, những con đường này cũng sống một cuộc sống bình thường của mọi con đường khác, đi qua xóm mạc, phố phường, ruộng đồng, làng chợ. Nó dẫn đến những nơi mà mọi con đường khác dẫn đến: căn nhà ta ở, ngôi trường ta học, xưởng máy ta làm, rặng núi hay bãi bể ta nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Mà con đường Hồ Chí Minh không phải thế.

     Nó qua những nơi ít ai ngờ đến nhất, nó vượt qua những nơi người ta không nghĩ rằng nó có thể vượt qua. Tột cùng trên mây trời kia là nó đấy. Chơi vơi giữa hai vực thẳm kia là nó đấy. Và tất cả các nhánh gần xa của nó hiện nay đều dẫn đến những nơi mà ta phải đối mặt với quân thù, dẫn đến tuyến lửa, chiến trường. Nó là con của một đất nước đang hành quân. Nó chỉ có thể là sản phẩm của một dân tộc quyết tâm chiến đấu.

Con đường lịch sử

     Những người đi trên đường số Một và các con đường khác bao gồm đủ mọi hạng người với vô vàn công việc khác nhau của họ: đi học, đi cày, cưới vợ, đẻ con, đi tìm người yêu, đi du ngoạn. Còn ở đây, chỉ có ai đi chiến đấu mới đi trên đường Hồ Chí Minh mà thôi, chiến đấu và tất cả những gì phục vụ cho chiến đấu. Có thể nói chỉ có lịch sử, chỉ có ai làm ra lịch sử thì mới đi trên tuyến đường nay. Cho nên, đứng trên tuyến đường ấy, người ta thấy mình như được nâng cao lên và nghe rõ hơn những tiếng nói cao hơn tiếng nói của đời mình, số phận mình. Ngỡ như ta được nghe tiếng nói của lý tưởng, của non sông, Tổ quốc.

     Đây là con đường dính líu đến số phận, đời riêng của tất cả chúng ta, dù ta biết đến hay không biết đến. Ai trong chúng ta ngày nay lại không có một người thân, một máu mủ ruột già đi đến chiến trường! Và thế tất là họ phải đi trên con đường ấy, chính là lúc họ đang treo võng ở dưới rừng già này, nấu cơm ở bờ suối này, hay tránh bom ở trọng điểm nọ. Có lúc tôi nghĩ hình như con sông chỗ ta nhập tuyến kia, nếu ta hỏi nó, chắc nó sẽ nhớ hết hàng vạn, hàng chục vạn người thân yêu từng đi qua nó và soi mặt mình vào! Những cây cổ thụ đại ngàn kia, dù bây giờ bom Mỹ đốt cháy thui, nhưng chính nó cũng nghe tiếng nói, tiếng cười của hàng vạn, hàng chục vạn người thân ta qua đấy.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: nhung bai tho cua ho chi minh

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Con đường Trường Sơn

    Con đường Trường Sơn này là một con đường làm tất cả chúng ta phải động lòng! Tấm lòng nửa đất nước miền Bắc ta gắn liền với nó, tấm lòng nửa đất nước miền Nam cũng thế. Và không phải gắn bó chỉ trong đi riêng, mà đầu tiên, lớn lao hơn, là trong đời chung, trong vận mệnh Tổ quốc! Tôi đã được chứng kiến những giây phút khá là lịch sử.

    Ấy là những ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi thăm tuyến đường! Mãi mãi tôi sẽ nhớ cái hình ảnh đồng chí ngồi dưới rừng già, trong tiếng “bắt cô trói cột”. Con chim từng kêu ở chiến khu Cao – Bắc – Lạng, ở rừng cao Việt Bắc, bây giờ lại kêu giữa Trường Sơn, đồng chí vừa uống chè rừng, vừa nghiên cứu bản đồ các tuyến đường. Nhưng xúc động nhất vẫn là hình ảnh chiều hôm ấy đồng chí đứng hên liên hoàn trọng điểm, nơi đã từng chịu mấy năm liền các trận B.52 ngày đêm liên tục.

Con đường Trường Sơn

    Hình như đồng chí không thể nén được lòng mình nữa. Hình như đồng chí không muốn ri khỏi nơi này. Đồng chí nói: “Suốt mấy năm trời ở bộ Tổng, đêm đêm qua điện thoại tôi đều nghe báo cáo về các trọng điểm này. Chốc nghe thông. Chốc lại tắc. Rồi lại thông! Suốt mấy năm như vậy! Và bây giờ thấy con đường. Thật là vĩ đại…” Đấy, con đường là như vậy! Một phút tắc hay thông ở đó, gắn liền với bao chiến trường, bao vấn đề trọng đại khác.

    Nó không chỉ dính líu tới miền Bắc, với miền Nam ta mà với tất cả những dân tộc anh em cùng sống trên bán đảo! Đế quốc Mỹ dùng tám triệu quả bom và gần nửa triệu viên đạn lớn để đánh phá con đường, chính vì lẽ ấy. Nhìn những xác xe ô-tô của ta cháy dọc con đường, ta mói biết cái giá ta phải trả cho mỗi chiến thắng của ta trên các chiến trường, khi đương đầu cùng tên đế quốc khổng lồ, kẻ thù số một. Tôi nói cùng một anh bạn: “Nếu không là dân tộc ta, nếu không có Đảng ta, thì có khi phải dừng lại nửa chặng đường!”.

    Anh bạn tôi cười: “Nói chi dừng! Có khi từ đầu đã không dám mở”. Tôi sực nhớ câu Bác Hồ ta nói trước ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám: “Dù có phải hy sinh đến đâu, dủ có phải chiến đấu đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”. Chúng ta là một dân tộc dám trả cái giá ấy cho nền độc lập của mình. Con đường Trường Sơn này thật xứng đáng mang danh hiệu Bác.


Lòng tin tạo nên sức mạnh

      Nhân loại đang ở thế tiến công. Chân lý đang trên đà chiến thắng. Bọn giết người đang ở thế sắp bị diệt vong. Chúng ta cần đến gấp cùng nhau để làm thêm sức mạnh. Bạn hãy cầm lấy chùm thơ này, tâm lòng này, bàn tay này, thực ra nó cũng là của bạn, đang đưa ra từ phía Việt Nam.

Và cả nước Mỹ mất lòng tin. Lâu nay nước Mỹ chỉ sợ mất thể diện, mất vàng, mất bí mật hạt nhân, nhưng ngày nay họ mới hiểu mất lòng tin là điều đáng sợ nhất. Chúng ta thiếu thốn những thứ, nhưng lòng tin không bao giờ ta lại thiếu. Lòng tin là nhựa đầy ắp trong cây mùa xuân chúng ta. Lòng tin của ta biểu hiện ra ở sức lực, nhung càng sung mãn trong tiềm lực. Lòng tin của ta, ta trút vào ngày nay nhưng ta càng giữ nó ở ngày mai. Ta tin ở dân ta, ở Đảng ta, nhưng ta tin ở chính mình. Ta tin ở từng người, nhưng ta càng tin ở cả nước, ở hàng chục triệu người, cùng bừng dậy mùa xuân lên một lượt. Đây là bài học của mùa xuân. Từng nụ, từng hoa chiến đấu với gió rét mùa đông ở chính cành mình, trụ ở đó, chờ ngày xuân đến. Và từng hoa nở, giục hàng nghìn hoa khác nở theo. Cái thắng lợi của cả Đảng, cả nước, đầu tiên phải tự từng người thắng lấy chính mình và góp sức vào. Không thể có mùa xuân đại thể, mùa xuân trừu tượng, nếu từng hoa chậm nở.

Lòng tin tạo nên sức mạnh

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…

Câu ấy Bác nói cho một xuân xưa, xuân này vẫn đúng. Ta hơn các năm xưa vì ta có hòa bình. Ta cũng hơn các năm xưa vì ta sẵn sàng chiến đấu.

Ta cũng hơn các năm xưa vì cả tớ thày đế quốc Mỹ, hơn bao giờ hết, đang ỏ thế ngày càng suy yếu của chúng, thế mất lòng tin.

Báo Nhân Dân – 1974

Khi con đường mang danh hiệu của Người

Nay ta xẻ vạn ngọn núi che trời làm bước tiến Chỗ ngết trời lầ chỗ sĩ hành quăn…

Có lần nhìn những đoàn xe chạy trên đường số Một, luôn luôn bị bom Mỹ đánh phá, chị Madeleine Riffaud đã nói: “Dây là con đường kỷ lạ nhíí,anh hùng nhất trên thế giới hiện nay”. Chị chưa đến thăm con đường Hồ Chí Minh, một con đường kỳ lạ anh hùng khác của Việt Nam chiến đấu.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: những bài thơ của hồ chí minh

Dịch thơ là cắt cánh một con chim

Có phải hỏi miền Nam anh đứng

Khi ta đứng lên cầm khẩu súng

Ta vì ta ba chục triệu người

Cứng vì ba ngàn triệu trên đời

Ta tha thiết tự do dân tộc

Không chi vì một dải đất riêng

Kẻ đa rắc trên mình ta thuốc độc

Giết màu xanh cả trải đất thiêng…

Bạn đời ơi!

Anh chị em ơi!…

Ai đó nói rằng “Dịch thơ là cắt cánh một con chim”… Biết làm sao được, muốn có thêm một bầu trời, nhiều khi phải rụng đi nhiều lông cánh. Từ bầu trời nước này qua bầu trời nước khác, thơ phải chịu thiệt thòi. Thơ Tố Hữu quả là khó dịch. Làm sao dịch được cái nhạc điệu thơ Việt Nam – mà thơ anh lại là một thứ thơ giàu nhạc điệu, có thể nói không những anh suy nghĩ trong nhạc điệu, mà lại còn suy nghĩ bằng nhạc điệu.

Dịch thơ là cắt cánh một con chim

Thơ anh lại còn khó dịch ở điểm này: Như hầu hết thơ chương Đông, ý của thơ anh không phơi ra trên chữ, mà lần nữa các câu, hồn thơ phần lớn nằm ngoài cái cơ thể của chữ – chữ dù đẹp đến đâu – nhưng chính cái hồn kia mới là đẹp lơn. Tố Hữu là thi sĩ hiện thực – tuyệt đối không dính líu xa gần gì với chủ nghĩa tượng trưng – nhưng có thể nói đến mỗi cảnh, mỗi sự việc mà anh tả rất tài tình – đều có giấu kín, có gửi gắm nhiều ý tứ lớn gấp bội các sự việc mà anh tả.

Dịch thơ anh lại còn khó ở điểm này: Như mọi nghệ thuật chân chính, anh không muốn “trơ” người ta bằng các trò chơi quỷ thuật của trí óc. Ở đây là tiếng nói chân thành của một con tim. Con tim bao giờ cũng thích trụi trần, và đơn giản nhất để đi đến bằng con đường thẳng nhất với những con tim khác đang chờ đợi nó.

Mặc dù có những sự khó khăn ấy, tôi tin rằng không có gì che lấp được tiếng gọi kêu tình bạn của anh. “Bạn đời ơi! Anh chị em ơi!” Tố Hữu thường dùng những chữ ấy trong thơ mình. Anh đang gọi những người bạn cùng chung số phận, cùng chung thế kỷ, cùng chung trái đất, tiếng gọi mỗi ngày càng tha thiết của thơ anh. Tôi mói đến thăm anh lần mới nhất đây vào lúc miền Bắc đang đón chờ việc hạ chiếc phi cơ thứ 800 của giặc Mỹ. Lẽ ra nói về tin chiến sự, nhưng chúng ta lại quay ra vấn đề tình bạn, lớng người. Anh bảo tôi “Đánh đế quốc Mỹ thì cũng dễ thôi, làm cho con người hiểu nhau mới là việc khó. Thực ra bọn giết người đâu có thực mạnh, đâu có thực nhiều. Chúng chỉ có một nhóm mà thôi. Nếu người chúng ta có sức mạnh vô biên, đế quốc nào mà ta không tiêu diệt nổi”. Tôi nhớ những câu anh viết:

Vỉ sao ngày một thanh tân

Vì sao người lại mến thân hơn nhiều

Vì sao cuộc sống ta yêu

Mỗi giãy mỗi phút sớm chiều thiết tha…

nhô lên như một vầng trăng, giữa cơn sóng gió. Mặc dù anh kêu khó, nhưng chính anh tin hơn bao giờ hết là “người mỗi ngày mỗi yêu, đòi mỗi ngày mỗi đẹp” và đó không phải là viên ảnh ngày mai, mà đã là thực sự hôm nay.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: các bài thơ của hồ chí minh

Nỗi đau nhân loại trong thơ Tố Hữu

Khi anh còn ở trong tù, anh đã quên mình là mình đi, mà chỉ nhớ mình là một bộ phận của Tổ quốc, của loài người, cũng đang bị ở trong lồng nô lệ:

Tôi chiều nay giam cầm hận trong lớng

Chỉ là một giữa loài người đau khổ

Tôi chi là một con chim bé nhỏ

Vứt trong lồng con giữa một lồng to

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, Tổ quốc một nửa được giải phóng, anh lại càng muốn mở rộng lòng anh theo tầm quả đất, với ôm đến bao bè bạn gần xa:

Nỗi đau nhân loại trong thơ Tố Hữu

Xưa là rừng núi, là đêm

Giờ thêm sông biển, lại thêm ban ngày

Ta đi trên trái đất này

Dang tay bè bạn, vui vầy bốn phương

Những ngày hòa bình ở Hà Nội, một chùm táo trước cửa nhà anh làm anh nghĩ đến bao ước vọng của loài người, bao chùm táo đang làm chảy máu những bàn tay các anh em khác, bàn tay chúng ta nữa ở miền Nam:

Thêm một ngày xuân đến.

Bình minh

Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh

Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ

Treo trước mắt loài người ta đó

Hòa bình độc lập ấm no

Cho con người sung sướng tự do…

Ở đất nước chúng tôi, người cộng sản với người yêu nước là một nghĩa. Hơn thế, cộng sản là những người yêu nước nhất trong những người yêu nước và bọn phản quốc xứ này hầu hết đều được tuyển lựa trong hàng ngũ những bọn chống cộng mà thôi. Tố Hữu từ lúc mới cầm bút viết cho đến nay, gần 30 năm trời, trái tim anh đập nhịp với mọi biến cố trên Tổ quốc.

Những người yêu nước chân chính bao giờ cũng là người có tinh thần quốc tế cao cả, có tình yêu nhân loại sâu xa. Có thể nói thế này được chăng? Những gì xảy đến cho con người ở đâu đều không xa lạ với Tố Hữu, vì anh biết rằng Việt Nam là một phần của cái máu thịt chung. Những bài thơ anh viết về Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Ba-lan, Cuba, Nhật Bản… đều là những bài thơ hay rung động lòng người như khi anh viết về chính Tổ quốc mình vậy. Ngược lại, những gì xảy ra trên đất nước này, Tố Hữu không bao giờ chỉ xem nó là một vấn đề dân tộc, chính nó động đến những “tình người, tình nhân loại” sâu kín nhất trong anh. Một tia nắng dọi, một giọt mưa sa bây giờ là nỗi vui chung, hay nỗi đau chung cho các màu da trên trái đất.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: tho cua ho chi minh

Trái tim nhân đạo của nhà thơ Tố Hữu

        Không viết những câu như vậy, anh sẽ là tàn ác. Cây xanh đã nổi giận. Người tình nhân đã nổi giận. Nhà thơ có cái giọng ngọt ngào như tiếng ru đã nổi giận. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Sau này anh thường yêu bằng trái tim nhân đạo ấy mà thôi. Đúng hơn, phút nổi giận này là phút cao độ của tình yêu: yêu nhân dân, yêu Tổ quốc, trái tim ấy không xơ ra, ngừng lại, mà trẻ thêm, mà đập mạnh những nhịp đập phi thường. Như trái tim chị Trần Thị Lý, nó không đập cho nó mà cho những gì vĩ đại:

Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại

Còn một giọt máu tươi, còn đập mãi

Không phải cho em.

Cho Lẽ phải trên đời

Cho quê làng em.

Cho Tổ quốc, loài người

Trái tim nhân đạo của nhà thơ Tố Hữu

Chính nhờ sự thống nhất ấy trong quả tim mà nhà thơ Tố Hữu vượt qua nhiều thử thách hiểm nghèo. Tôi đã thấy nhiều bài thơ của nhiều tác giả viết thời bình, nhưng khi xẩy ra thời chiến, thì cồng kềnh như những gối chăn khó đưa ra hỏa tuyến. Ngược lại, có nhiều bài thơ viết trong thời chiến, kịp đến khi hòa bình, thì nó tồn tại như những cái hầm trú ẩn và giao thông hào ít kẻ vãng lai. Có lẽ những tác giả ấy đã viết với một nửa quả tím mình, mỗi lúc, hoặc là bên tả hay bên hữu. Thơ Tố Hữu không như thế. Nhiều cặp tình nhân hôm cưới có thể đọc cho nhau nghe thơ anh viết lúc ở trong nhà ngục hay lúc hành quân. Nhiều chiến sĩ ngoài mâm pháo rất mê đọc các bài của anh viết về các cháu thiếu niên, các bà mẹ. Điều đó chứng tỏ rằng nhà thơ và độc giả của minh chưa hề bị hòa bình làm méo đi phía này hay chiến tranh làm méo đi phía khác.

“Bốn nghìn năm ta lại là ta”…

Bốn nghìn năm hòa bình rồi lại chiến tranh, chiến tranh rồi lại hòa bình đã dạy cho nhân dân và các thi sĩ chúng ta những bài học lớn.

Mỗi hạt mưa sa

Mỗi tía nắng dọi cũng là tình chung

Tố Hữu là một nhà thơ cộng sản. Chính cái lý tưởng ấy đã dạy cho cậu bé 17 tuổi:

Tôi buộc lớng tôi với mọi người…

Tôi dữ là con của vạn nhà…

Tổ quốc, nhân dân, nhân loại, đây là điều suy nghĩ thường xuyên của thơ Tố Hữu.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ của hồ chí minh

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Mùa xuân của ta là mùa xuân của ta

          Chào miền Bắc, chỉ có một năm trời sau chiến tranh đã có bộ mặt ngày nay. Không phải chỉ có cỏ non, mà là lúa, là khoai xanh trên đất chết các hố bom vừa lấp lại. Không phải chỉ có cầu đường, trường học, nhà máy cũ phục hồi, mà cái mói vẫn được khai sinh.           Ôi, giá ta chỉ phải làm có mỗi một việc thôi là hàn gắn vết thương chiến tranh thì cũng đỡ phần vất vả! Nhưng vừa băng bó vết thương ngày qua, ta phải lo cho hạnh phúc lớn lao ngày mai, tay ta vừa phải chăm chút cho nơi này, mà trái tim vẫn phải đập cho nơi khác. Ta không được để han gỉ một tên lửa ngoài mặt trận mà cũng không được quên một tên đồng Cổ Loa trong viện bảo tàng. Chất thép ta quan tâm không phải chỉ ở khu gang thép Thái Nguyên, mà còn là chất thép trong mỗi câu thơ, trong mỗi con người. Tất cả điều ấy không được bỏ sót điều nào đã đành, hơn thế, tất cả đều phải tiến hành cùng một lúc.

         Và chỉ có ngày mai mới đánh giá hết hôm nay của ta thôi, khi các con số đã được cộng lại rồi, khi trái chúi, và hoa nở. Nhưng ngày nay, ai bảo ta không nên chào những thắng lợi bước đầu. Miền Bắc với ta nhìn ở đây là đất người có khi với tất cả sự phức tạp của con người. Nhưng hãy đến Quảng Trị nhìn ra thôi, anh sẽ thấy đấy là đất thánh. Cũng như thế, rời Việt Nam ra hàng vạn cây số, đứng một nơi nào đó trên thế giới, nhìn về đây, anh sẽ thấy nó chói lòa. Càng xa ra trong thời gian cũng vậy. Tôi nghĩ càng về sau này càng nhìn lại, ta mới thấy hết cái hạnh phúc mà ta sống ở đây và những ngày này…
        Mùa xuân của ta là mùa xuân của ta, nhưng lắm lúc cho thấy hết giá tri của mùa xuân mình, phải đem so sánh với mùa đông chúng nó. Tôi không muốn ám chỉ đến việc mỗi gia đình Mỹ năm nay phải lạnh thêm mấy độ. Đấy là đau khổ của nhân dân Mỹ, do tội các của Nixon đã tự biến mình thành kẻ thù của nhân dân A-rập gây ra. Nhung không phải cây Nô-en trước dinh tổng thống Mỹ năm nay cung lại tối sầm. Cây Nô-en của chúng không sao bì được với cây đào của chúng ta Với cây mai nữa! Vì cây mai vàng đau thương vẫn là cây mai vàng chiến thắng. Cả nước Mỹ, cả phe tư bản huênh hoang nhường ấy, nhung khi các nước A-rập tự nhận được sức mạnh của mình cắt nguồn năng lượng từng nuôi đế quốc, thì vị thần ngáo ộp ấy đã thấy không đứng vững trên đồi chân đất sét của mình. Thực ra, đế quốc Mỹ ngày nay suy yếu đâu phải vì số dầu không được mua vào, mà chính là vì cuộc chiến banh Đông Dương với 600 tỷ vàng, nó đã ộc ra từ trước.

Mùa xuân của ta là mùa xuân của ta

         Năm nay là năm đế quốc Mỹ thấm đòn cũ và nhận thêm đòn mới. Những vết thương nhận bên ngoài nước Mỹ, bay giờ kéo về bên trong nước Mỹ, những chiến thương thành vết tâm thương. Cái tâm thương ấy có nhiều tên gọi mà một tên gọi là Watergate. Ô hay, ở cái nước quen đánh giá sự vật bằng lợi nhuận, vàng, sắt, thép, thậm chí như trong một chuyện vui của Mỹ khi lên thiên dàng hay xuống địa ngục, ờ đấy người ta không hỏi anh ở trên đời đã làm điều thiện hay tội ác gì, mà hỏi hàng năm kiếm được bao nhiêu đô-la, thế mà bây giờ cả nước ấy bị vò xé, đến tan nát, thảm sầu vì điều này: Nhân Phẩm. Người ta hỏi: Có phải bên cạnh những kiểu người trong lịch sử, từ con người hiệp sĩ, người quân tử thời xưa, đến con người anh hùng Việt Nam, con người xã hội chủ nghĩa thời nay, thì kiểu người lọc lừa, tàn bạo, xảo quyệt như Nixon là con người kiểu Mỹ đó chăng?


Bài học mùa xuân

          Và tay ta lại cầm lấy nhánh đào. Bằng cử chỉ ấy con người chiến sĩ, con người lao động cần cù trong ta một phút trở thành nghệ sĩ, thành tình nhân yêu mến của thiên nhiên. Ta gắn ta cùng đất trời cây cỏ.          Ta nối ta cùng cha ông, tập tục cổ truyền. Ta hòa trong cái vui sinh nở của muôn loài, của tuổi trẻ.
           Như những ngày còn Bác – Bác đã đi vào Mùa xuân muôn thuở, sống đời đòi cùng dân tộc, và mỗi khi Tết đến, xuân sang, ta ngỡ Bác lại về – lớng ta đầu tiên xin gửi đến miền Nam. Miền Nam sau mấy chục năm chiến tranh đến nay, vì âm mưu Mỹ – ngụy vẫn chưa có được hòa bình. Tết này các chiến sĩ ta vẫn phải ăn Tết ở chiến hào. Và trong nhà ngục Sài Gòn, hàng chục vạn đồng bào ta thêm một lần không có mai vàng, không có Tết. Những lòi hò hét chiến hanh của Thiệu mới đây và lòi đe dọa ném bom Đông Dương trở lại, của tên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ không phải là những lời chúc phúc tốt đẹp gì. Chúng ta biết mùa xuân không ru ngủ bọn giết người. Sự việc ở Chilê, ở Trung Đông càng nhắc ta cảnh giác. Bởi thế, bên cạnh hoa đào, hoa mai, các mâm pháo ta vẫn phải chĩa lên trời. Bọn giết người hãy coi chừng! Những đòn trừng phạt của quân và dân miền Nam năm qua đã làm cho chúng thấm đòn trong các ngày nghỉ Tết này. Và nếu chúng giở trò gì thì chúng nhớ rằng dân tộc Việt Nam, từ Quang Trung, và trước nữa, vẫn có truyền thống đè bẹp quân thù vào lễ Tết.

Bài học mùa xuân

             Nhưng trong cảnh giác, ta vẫn không quên là mùa xuân theo chu kỳ đã đến. Và ta phải xúng đáng với người yêu muôn thuở ấy, hàng năm lại đến lại về. Ta hãy để yên cho hoa trên cành và nụ lộc đầu cây thêm sức lực cho ta. Ôi, mới hôm nào còn là những cành gầy khô trần trụi, mà bây giờ đã đủ sắc hương, quả thiên nhiên là một bài học về sinh lực, về tiềm lực đối với con người. Sự vật ấy vẫn sự vật ấy, và ta vẫn ta thôi. Nhưng hãy để máu trong ta thay máu mới, mắt ta thay lại, trẻ lại cái nhìn. Và bây giờ đứng về phía hoa đào, hoa mai, phía nẩy lộc lên mầm, phía cuộc đòi đang độ bắt đầu, đang độ giêng hai, ta đánh giá và chào sự vật.
         Chào miền Nam ở đấy sau hàng chục năm trời chiến đấu, ngày nay lại vừa chiến đấu, vừa dựng xây vùng giải phóng của mình. Có phải mỗi tấc đất giải phóng rộng gấp đôi, gấp mười tấc đất thường? Cả vùng giải phóng bát ngát rộng rinh từ Bến Hải đến mũi Cà Mau, tôi mới đi thăm Quảng Trị, thế nhưng tôi đã thấy “nghênh ngang một cõi biên thùy”, và tự nói với mình: ‘Thí dụ, thí dụ thôi, cuộc tổng tấn công vừa qua chỉ vẻn vẹn lấy được một mảnh đất Quảng Trị này, thì cũng đã đáng công cho ta lắm!”. Tôi chắc các bạn nào đứng ở khu giải phóng Tây Nguyên, Lộc Ninh, Nam Bộ hẳn cũng có thể nghĩ như tôi về mảnh đất của mình, về cái thế lớn lao của nó. Không phải cái thê đất, mà đầu tiên là cái thế người trên miền đất ấy. Hàng triệu con người hôm qua còn gục mặt, cúi đầu, nay đã quay lại, trở về, đứng dậy, đứng lên, bên các chiến sĩ Giải phóng quân, nổ súng đánh vào bọn lấn chiếm, thì chính đấy là họ đang bắt đầu cái giêng hai của họ, họ đang làm trỗi dậy cái tiềm lực mùa xuân.



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ kháng chiến