Pages

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

Đất Hà Tiên

         Đất Hà Tiên, cũng theo LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG: “Thời cổ là nơi đất hoang”… nhưng cũng nhờ bàn tay lao động vô danh mà từ 300 năm trước đã trở nên “ngày thêm phồn thịnh, nhản dân ở yên cày cấy, trồng trọt, phong vật phồn hoa, cứng là một đất vui ờ miền biển”.
        Ôi, sung sướng biết bao ngày nay, khi nhìn cảnh vật ở miền Tây Nam Bộ, ta thấy cái nhìn của người xưa hàng trăm năm trước cái nhìn của chúng ta ngày nay cùng chung một xúc động ấy… “Đất này nhiều khe suối, đường thủy như mắc cùi. Người giầu chở thuyền lớn, người thường chở thuyền nhỏ, để đi ra các vùng biển. Tứ dưới cửa biển lên đến đầu nguồn, đi đến năm, sáu, bảy ngày đều là đồng cao, mắt trông không củng. Bằng phăng rộng rai là như thế”. (LỊCH TRIỀU HIẾN CHUƠNG).

Đất Hà Tiên

       Lòng yêu, say đất nước ấy, thể hiện ở việc Lê Quý Đôn từ thuở ấy trong PHÙ BIÊN TẠP Lực đã đánh giá cả năng suất của loại ruộng cỏ và ruộng ở dồng bằng Cửu Long. Và Phan Huy Chú thì say từng thứ lúa, tả tì mỉ từ mùi hương chất dẻo: “Đất này cấy lúa tẻ, lúa nếp rất hợp. Hột gạo trắng mà dẻo. Các thứ lúa tẻ có thứ gọi là gạo “mắc cửi” hột nhỏ mà dài, có vân như gấm, mủi rất thơm. Có thứ gọi là gạo “già – đông” hột to mà trắng. Có thứ gọi là gạo “móng tay” hột tròn mà to, thổi cơm nở và chắc. Còn lúa nếp có thứ gọi là nếp “mướp” hột to mà dài, trắng thơm mà dẻo. Có thứ gọi là nếp”mây”, hột to, mềm dẻo. Có thứ gọi là nếp “than” hột nhỏ mà mềm. Có thứ gọi là nếp “nhẹ”, hột nhỏ như hoa cây trúc, thơm mà dẻo. Có thứ gọi là nếp “sáp”, vỏ thóc đỏ, hột to, gạo trắng thơm và mềm…”. Thật là một bài thơ về hạt ngọc của Trời. Ngày nay còn có các thứ “ngọc thực” ấy không? Chúng ta ít biết đến các thứ sản vật của đất nước thời ta, hơn người xưa đã yêu và đã viết về chúng.
        Đất nước giàu đẹp như vậy nhưng nguyên nhân của bao khổ đau đã nằm trong ấy rồi, như con sâu ẩn trong quả ngọt. Lê Quý Đôn cho biết: “Mỗi năm có hàng trăm thứ thuế, mà trung thu thì phiền phức, gian lận, nhăn dân khốn khổ về nỗi một cổ hai tròng”… “Từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn che, đồ dùng toàn bằng đồng bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa dây cương đều nạm vàng nạm bạc, áo quần ỉă lượt, nệm hoa chiếu mây… lấy phú quý phong lưu dể khoe khoang lẫn nhau… Họ coi vàng như cát, thóc gạo như bùn… Hoang phí vô cùng…”



Từ khóa tìm kiếm nhiếu: bài thơ bốn câu