Tiến sĩ Đỗ Quang (1807-1866) quê ở miền Bắc, nhưng làm quan và đánh Pháp tại miền Nam. Vua bắt ông từ bỏ chiến trường, về làm tuần vũ Nam Định, cạnh quê nhà. Ông dâng sớ không nhận chức: “Ngày tôi ra về, kẻ sĩ và nhân dân đón chật đường mà nói rằng: “Từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân rồi, quan lại về làm quan, dân thì không còn được làm dân triều đình nữa”… Tiếng khóc đầy nghẽn đường, tôi cũng phải gạt nước mắt mà đi. Nếu tôi lại nhận chức ở địa phương Nam Định thì tôi với nhân dân Gia Định biết nói thế nào? Tôi còn chút lòng người, thật biết xấu hổ”…
Qua lời sớ trên, không những ta thấy toái tim rất đỏ của tiến sĩ Đỗ Quang, mà càng thấy dòng máu rất đỏ, đỏ nguyên chất, của nhân dân Nam Bộ, dòng máu luôn rực sôi lên, luôn cháy bỏng vì thống nhất nước nhà.
Phan Huy Chú viết ở LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ: “Của báu một nước không có gì quý bằng đất dai, nhăn dân và cứa cái đều do đấy sinh ra”. Còn ở đâu lòng dân gắn bó với đất đai, với thống nhất, với Bắc Nam bằng ở miền Nam? Noi ấy đầu tiên, đất đai Việt Nam, máu thịt Việt Nam bị chém bởi lưỡi dao chia cắt.
Tôi còn nhớ câu thơ Phan Văn Trị (1830-1910):
Qua lời sớ trên, không những ta thấy toái tim rất đỏ của tiến sĩ Đỗ Quang, mà càng thấy dòng máu rất đỏ, đỏ nguyên chất, của nhân dân Nam Bộ, dòng máu luôn rực sôi lên, luôn cháy bỏng vì thống nhất nước nhà.
Phan Huy Chú viết ở LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ: “Của báu một nước không có gì quý bằng đất dai, nhăn dân và cứa cái đều do đấy sinh ra”. Còn ở đâu lòng dân gắn bó với đất đai, với thống nhất, với Bắc Nam bằng ở miền Nam? Noi ấy đầu tiên, đất đai Việt Nam, máu thịt Việt Nam bị chém bởi lưỡi dao chia cắt.
Tôi còn nhớ câu thơ Phan Văn Trị (1830-1910):
Tan nhà cảm bởi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa.
Câu thơ Thủ khoa Huân (7-1875):
Thác về đất Bắc, danh còn rạng
Sống ở thành Nam, tiếng bõ không
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa.
Câu thơ Thủ khoa Huân (7-1875):
Thác về đất Bắc, danh còn rạng
Sống ở thành Nam, tiếng bõ không
Tôi nhớ những tình cảm Bắc Nam day dứt trong thơ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888):
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng
Bờ cõi xưa đều chia đất khác
Nắng sương nay há đội trời chung
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng
Bờ cõi xưa đều chia đất khác
Nắng sương nay há đội trời chung
Tôi đã đến viếng, dù chỉ được trong chốc lát, mộ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) tại cần Thơ, và nhẩm đọc:
Anh hùng sáu tinh thiếu chi đây
Đâu để giang sơn đến thế này?
Đâu để giang sơn đến thế này?
Tôi nhớ Phan Văn Trị, Phan Tòng, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông, ôi, nhất là Nguyễn Thông với bao bài thơ xé ruột. Nhớ cả một thế hệ chiến sĩ và thi nhân, thi nhân và chiến sĩ, đã để trái tim mình vò xé bởi nỗi đau giang son chia cắt, nhưng chính trái tim và lời thơ của minh cũng đã góp phần hàn gắn núi sông. Hồi các hồn xưa, ngày nay đâu phải chỉ có sáu tỉnh, ngày nay là cả một nước anh hùng. Ngày nay ta có bốn mươi lăm triệu anh hùng trên vạn dặm giang sơn. Ta đã và đang xây nền thống nhất bền vững nhất trong lịch sử bốn nghìn năm dàn tộc. Bởi vì bèn ngoài, ta đã đánh bại cuộc xâm lược của tên đế quốc Mỹ siêu cường, kẻ thù số 1 của toàn nhân loại. Bên trong, ta xóa bỏ cái xã hội chia cắt ra thành giai cấp, người áp bức người, người bóc lột người, cái xã hội làm chảy máu tay ta nhu vô vàn mảnh vỡ thủy tinh của triệu triệu mảnh tư hữu ích kỳ riêng tây và cá nhàn lẻ vụn. Ta sẽ xây nên một xã hội xã hội chủ nghĩa, con người không phải chỉ chung nền độc lập của Tổ quốc, mà còn chung một mặt đất ấm no, một bầu trời hạnh phúc, thống nhất nhau trong lý tưởng tâm hồn. Chính sự thống nhít này bảo đảm cho nền thống nhất kia muôn đời bền vững.
Dư luận quốc tế bảo ta đi nhanh. Đàng hoàng mà lại rất nhanh. Đúng đấy. Vì ta có súc đẩy của lịch sử nghìn xưa, có sự nâng lên của 45 triệu nhân dán Kiện tại. Có ngôi sao dẫn đường của Đảng. Và có con đường vạch ra bởi Bác chúng ta.
Ba mươi năm chúng ta đi không chệch một con đường
Nghĩ cho lắm cứng trở về cái gốc
Đánh nghìn trận trăm phen đổi mấy chiến trường
Cũng chỉ để giải phóng miền Nam và Thống nhất.
Dư luận quốc tế bảo ta đi nhanh. Đàng hoàng mà lại rất nhanh. Đúng đấy. Vì ta có súc đẩy của lịch sử nghìn xưa, có sự nâng lên của 45 triệu nhân dán Kiện tại. Có ngôi sao dẫn đường của Đảng. Và có con đường vạch ra bởi Bác chúng ta.
Ba mươi năm chúng ta đi không chệch một con đường
Nghĩ cho lắm cứng trở về cái gốc
Đánh nghìn trận trăm phen đổi mấy chiến trường
Cũng chỉ để giải phóng miền Nam và Thống nhất.
Từ khóa tìm kiếm nhiếu: thơ của hồ chí minh